NƠI CHIA SẺ KIẾN THỨC VÀ HỌC DỰ TOÁN HIỆU QUẢ!

 [tintuc]

Đánh giá việc áp dụng BIM theo hướng độ tin cậy trong dự toán chi phí của QS

BIM trong dự toán chi phí QS

Tác giả: Noor Akmal Adillah Ismail*, Raja Rafidah Raja Muhammad Rooshdi, Shaza Rina Sahamir và Hazwani Ramli
Tạp chí: Engineering Journal (0125-8281), 2021
Tóm tắt:
    Công nghệ BIM đã phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới trong những năm gần đây. Tại Malaysia, BIM đã được khởi xướng trong Chương trình Chuyển đổi Công nghiệp Xây dựng (CITP) giai đoạn 2016-2020. Một trong những mục tiêu của CITP là khuyến khích sử dụng BIM nhằm hỗ trợ các đơn vị xây dựng cải thiện hoạt động hiện tại để đạt năng suất cao hơn và thúc đẩy tính bền vững trong ngành xây dựng. Trong lĩnh vực quản lý chi phí xây dựng, công nghệ này giúp các Nhà khảo sát số lượng (Quantity Surveyors) đẩy nhanh quá trình bóc tách khối lượng, từ đó đưa ra các ước tính chi phí đáng tin cậy và bền vững hơn.
    Mặc dù BIM được cho là cải tiến các phương pháp đo lường truyền thống, vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong việc đổi mới BIM, và các nghiên cứu trước đây chưa giải thích rõ ràng những vấn đề này. Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng BIM để hỗ trợ các Nhà khảo sát số lượng tại Malaysia trong việc ước tính chi phí và đóng góp vào sự bền vững của ngành xây dựng. Để đạt được mục tiêu này, một loạt các cuộc thảo luận nhóm tập trung đã được thực hiện giữa những người dùng BIM và những người không sử dụng BIM. Qua phân tích nội dung, kết quả cho thấy khả năng sử dụng BIM của người ước tính là yếu tố quan trọng để đạt được lợi ích bền vững từ công nghệ. Điều này đòi hỏi sự kết hợp giữa kỹ năng sử dụng công nghệ và các phương pháp đo lường truyền thống để có được kiến thức toàn diện về xây dựng. Do đó, BIM nâng cao hiệu suất của các công cụ ước tính, tạo ra độ tin cậy và tính bền vững trong ước tính chi phí.
    Nghiên cứu này góp phần hiểu rõ hơn về việc kết hợp BIM trong ước tính chi phí và các yếu tố bền vững trong thực hành khảo sát số lượng.
Từ khóa:Mô hình thông tin công trình, Khảo sát số lượng, dự toán chi phí, độ tin cậy, ngành xây dựng Malaysia.

1. Giới thiệu: 
Trách nhiệm quan trọng của người QS với tư cách là người đảm bảo rằng các dự án xây dựng được đề xuất nằm trong ngân sách của chủ đầu tư [1]. Có nhiều phương pháp khác nhau cho quy trình lập dự toán chi phí truyền thống để người QS triển khai trong suốt quá trình thiết kế và phát triển dự án xây dựng [2-7]. Vì chi phí dự toán sẽ được sử dụng làm cơ sở đấu thầu cũng như tài liệu tham khảo cho việc quản lý dự án trong tương lai nên việc chuẩn bị cho những dự toán đáng tin cậy và chính xác là rất khó khăn [8]. Do đó, việc lựa chọn phương pháp dự toán chi phí phù hợp và cải tiến quy trình, thủ tục là rất quan trọng để nâng cao độ tin cậy và độ chính xác của hồ sơ dự toán chi phí [9]. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy và độ chính xác của dự toán chi phí trong các báo cáo về quản lý dự án xây dựng [9-22]. Những yếu tố đó cần được người QS nhìn nhận rõ ràng khi lập dự toán để đạt được sự hài lòng của khách hàng, đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của họ.

Mặc dù đã xem xét tất cả các yếu tố nhưng việc thực hiện và quy trình dự toán vẫn liên tục gặp phải sai sót, thiếu chính xác và thiếu sót; tuy nhiên, công nghệ BIM trở thành giải pháp quan trọng đối với những thách thức này [13]. Không thể chối cãi rằng thông qua trực quan hóa dữ liệu, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và phối hợp dữ liệu, các mô hình BIM cho phép chất lượng trao đổi thông tin dữ liệu tốt hơn cho các dự án xây dựng [23-28]. Tuy nhiên, khi áp dụng công nghệ để ước tính chi phí, có một số lo ngại liên quan đến việc cung cấp cho các mô hình kỹ thuật số thông tin cần thiết cho dự án [29]. Để những người QS có thể hiểu được một cách dễ dàng quá trình xây dựng thực tế, các mô hình BIM cần phải mô phỏng đầy đủ chính xác tòa nhà được yêu cầu [30, 31]. Theo đó, người lập mô hình BIM nhất thiết phải cung cấp các tiêu chuẩn dữ liệu cho mô hình để xác định các dữ liệu đầu ra phù hợp cho mục đích dự toán và trao đổi thông tin giữa các bộ phận liên quan [13].

Nhiều quốc gia trên thế giới đang tích cực thiết lập BIM ở khu vực tương ứng của họ. Malaysia, được thúc đẩy bởi chương trình Chuyển đổi Công nghiệp Xây dựng (CITP) 2016-2020 nhằm cải thiện năng suất trong ngành xây dựng, cũng đang thúc đẩy rộng rãi việc sử dụng BIM trong số các đơn vị xây dựng của mình [32]. Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn ở mức độ thấp [32, 33] cho thấy cần có một số giải pháp cho vấn đề này. Do đó, bằng cách tập trung vào thực tiễn khảo sát số lượng ở Malaysia, nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá những tác động có thể có của việc sử dụng BIM và hiệu quả của nó trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho người QS trong việc dự toán chi phí cho các dự án xây dựng. Thiếu các nghiên cứu xem xét cải thiện thông tin BIM thông qua trực quan hóa dữ liệu, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và phối hợp dữ liệu để tạo điều kiện thuận lợi cho QS với tư cách là người đảm bảo độ tin cậy và độ chính xác của chi phí cho công trình.
2. Tổng quan nghiên cứu:
2.1. Trực quan hóa dữ liệu BIM, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và điều phối dữ liệu trong việc cải thiện thông tin trong dự án xây dựng
    Công nghệ BIM thực sự tạo điều kiện để tạo ra chất lượng dữ liệu tốt hơn cho tài liệu dự án xây dựng [23-28]. Ứng dụng trực quan hóa truyền tải thông tin hiệu quả hơn so với việc đọc dữ liệu thô đơn lẻ, dẫn đến sự hiểu biết và cung cấp thông tin tốt hơn [34]. Các mô hình trực quan BIM minh họa không chỉ các thuộc tính của tòa nhà mà còn cả sự tương tác và mô phỏng chuyển động của chúng, có thể được sử dụng ở bất kỳ giai đoạn nào của dự án xây dựng [35, 36]. Khả năng hình dung trình tự xây dựng cho phép các kỹ sư hình dung rõ hơn về những gì họ dự định xây dựng [37, 38]. Ngoài việc thể hiện hình ảnh trực quan rõ ràng hơn thay vì sử dụng các bản vẽ 2D dễ gây tranh cãi [39], thiết kế 3D phong phú cho phép hiển thị các hình ảnh tòa nhà và nội dung của nó ở mọi góc độ cùng một lúc [40]. Nó tạo điều kiện thuận lợi một cách tuyệt vời cho việc phát hiện xung đột của các cấu kiện tòa nhà, cho phép mọi vấn đề liên quan được khắc phục sớm hơn để tránh những thay đổi trong quá trình thiết kế và thi công gây tốn kém.

    Mô hình BIM hoạt động như một cơ sở dữ liệu cung cấp thông tin tích hợp các yếu tố kỹ thuật và kiến trúc xây dựng [40, 41]. Cơ sở dữ liệu được phát triển dựa trên hệ thống phân loại có khả năng tương thích với định dạng chung (IFC) [30]. IFC bao gồm cả hình học và thuộc tính của các cấu kiện mô hình, cho phép chia sẻ thông tin giữa các bên liên quan [40]. Trong đó, mô hình BIM có thể liên kết các thành phần khác nhau, tùy thuộc vào dữ liệu do các bên thiết kế cung cấp, toàn bộ thông tin sẽ được lưu trữ trên đám mây thư viện và được tích hợp trong một tệp BIM duy nhất. Bất kỳ thay đổi nào được thực hiện đối với mô hình đều cảnh báo người dùng, do đó cho phép họ không chỉ tạo dữ liệu mà còn tự động cập nhật mọi dữ liệu đính kèm khi có thay đổi [42, 43]. Do đó, nền tảng BIM giúp các thông tin từ nhiều bên liên quan tập trung, tạo điều kiện khai thác và phối hợp hiệu quả hơn bằng cách tăng cường trao đổi thông tin trong suốt dự án.

    So với các bản vẽ trên giấy khó đồng bộ hóa, mô hình BIM trở thành giải pháp hướng tới sự phối hợp dữ liệu tốt hơn trong quá trình làm việc [43]. Với việc người dùng tạo các phần tử 3D thông qua phần mềm BIM có liên quan và sắp xếp chúng trong một mô hình duy nhất, có thể thể hiện nhiều chế độ xem. Dữ liệu từ kế hoạch xây dựng, các mặt cắt và độ cao phản ánh từ các góc nhìn đó được phối hợp, do đó cải thiện sự phối hợp trao đổi thông tin giữa tất cả các bộ phận trong nhóm [44, 45]. Việc cung cấp thông tin phối hợp nâng cao hơn nữa tài liệu xây dựng theo hướng giảm lỗi và đập phá làm lại [46-51]. Các mô hình thiết kế và xây dựng liên kết kiểm tra xung đột đồng thời giữa các yếu tố của hệ thống kiến trúc, kết cấu, cơ điện và hệ thống ống nước [43]. Trường hợp lắp đặt tất cả các thiết bị, đồ đạc cố định, đường ống, ống dẫn, bộ phận kết cấu và các thành phần tòa nhà khác đang được phân tích bằng công cụ “phát hiện xung đột” [52], cơ chế này mang lại lợi ích cho các kỹ sư làm việc giám sát từng khu vực thông qua thông tin đầy đủ mà họ có, nhằm loại bỏ những xung đột không mong muốn trong suốt dự án [53]. Dù sao đi nữa, người dùng nên kiểm tra cẩn thận một số yêu cầu trong quy trình dựa trên BIM trước khi tạo lập mô hình, cụ thể là về thông tin đầy đủ được đưa vào mô hình [29].
2.2 Thông tin BIM giúp cho việc dự toán chi phí chính xác hơn về khối lượng
    Càng gần với xác suất thực tế, dự toán chi phí càng được tin cậy [54], vì độ tin cậy của dự toán được đo bằng mức độ tin cậy liên quan đến phạm vi độ chính xác của dự toán [16]. Độ tin cậy của dự toán chi phí bị ảnh hưởng lớn bởi tính chất và chất lượng thông tin có sẵn [13], do đó, dữ liệu chi phí cho dự án cần phải đáng tin cậy và được cập nhật [17]. Có một mối tương quan tích cực giữa thông tin cung cấp trong suốt các giai đoạn của dự án và độ chính xác của dự toán [7, 55]. Do đó, độ chính xác và độ tin cậy mong đợi của dự toán quyết định chất lượng của dự toán, và chất lượng này ảnh hưởng đến khả năng của người dự toán trong việc dự báo chi phí dự án trong tương lai [16]. Ngoài việc có dữ liệu để dự toán chi phí, người dự toán còn phụ thuộc vào kỹ năng và phán đoán của họ để thiết lập độ tin cậy của chi phí [56].
    Khi thông tin dự án cập nhật trở thành yếu tố thiết yếu trong việc dự toán chi phí, giúp người dự toán tạo ra các dự toán chi phí đáng tin cậy hơn [13, 17], công nghệ BIM với sự phụ thuộc cao vào các mô hình 3D chính xác và hoàn chỉnh mang lại lợi ích hơn so với phương pháp dự toán truyền thống [57]. Ưu điểm của việc sử dụng quy trình dự toán dựa trên mô hình BIM nằm ở khả năng giảm thời gian đo lường công trình so với cách sử dụng bản vẽ 2D thủ công [58]. Các dự toán dựa trên BIM, kết nối trực tiếp mô hình tòa nhà và phần mềm lập kế hoạch, cung cấp đủ chi tiết cho dự án ở các giai đoạn đo lường khác nhau, cho phép trích xuất dữ liệu dễ dàng hơn so với phương pháp tính toán thông thường [30]. Shen và Issa (2010) giải thích về khả năng của mô hình BIM trong việc nâng cao hiệu suất của người dự toán giúp xử lý các nhiệm vụ dự toán phức tạp hơn [59]. Cheung et al. (2012) mô tả khả năng của cơ sở dữ liệu BIM trong việc nhận dạng và cập nhật đồng bộ bất kỳ thay đổi nào của công trình xây dựng cùng với sự phát triển thiết kế, để tự động hóa việc đo lường khối lượng công trình [60]. Trong khi đó, Chen (2013) khi dự toán khối lượng bê tông cốt thép, đã chứng minh rằng độ chính xác của dự toán cao hơn khi sử dụng phương pháp dựa trên BIM so với phương pháp truyền thống [61]. Các nghiên cứu khác cũng khẳng định rằng cơ chế BIM hiệu quả trong việc giảm sai sót do thiếu sót và tính toán sai trong việc dự toán chi phí xây dựng bằng quy trình truyền thống [61-63]. Việc sử dụng BIM đã được báo cáo rộng rãi trong công tác đo bóc khối lượng trên toàn thế giới, đặc biệt trong việc giúp phát triển các dự toán chi phí đáng tin cậy hơn [64-68]. Các dự án xây dựng dựa trên BIM có sự tham gia đáng kể của các Kỹ sư Đo bóc khối lượng với vai trò người dự toán, đặc biệt là trong việc bóc tách vật liệu [64]. Olatunji et al. (2010) nhấn mạnh rằng công nghệ không thể thay thế nhiệm vụ đo bóc khối lượng, mà người dùng cần phải vượt qua các hạn chế của công nghệ [69]. Mặc dù có BIM hỗ trợ hầu hết các công việc bóc tách nhiệm vụ của Kỹ sư Đo bóc khối lượng với vai trò cố vấn chi phí trong việc ra quyết định trong quá trình thiết kế và phát triển xây dựng là rất quan trọng [28]. Boon và Prigg (2012) tuyên bố rằng để làm cho quá trình dự toán hiệu quả hơn bằng cách sử dụng ứng dụng BIM, cần phải có các Kỹ sư Đo bóc khối lượng có năng lực trong việc sử dụng phần mềm kỹ thuật số [66]. Tuy nhiên, có một số hạn chế trong việc áp dụng công nghệ này một cách hiệu quả về đo bóc khối lượng và thiếu các nghiên cứu điều tra về vấn đề này.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng khảo sát
Các đối tượng khảo sát được lựa chọn dựa trên tiêu chí về kinh nghiệm làm việc trong việc dự toán chi phí xây dựng, nền tảng chuyên môn, vai trò hiện tại trong tổ chức, và lĩnh vực của doanh nghiệp hiện tại mà họ đang làm việc. Để có các quan điểm đa dạng về việc dự toán chi phí với sự đánh giá của BIM, có hai nhóm đối tượng chính gồm 5 người sử dụng BIM và 6 người không sử dụng BIM [70]. Tuy nhiên, tiêu chí về kinh nghiệm làm việc giữa hai nhóm này có một số khác biệt đến một mức độ nào đó, do khó khăn trong việc tìm kiếm người dùng BIM có kinh nghiệm hơn ba năm trong việc ước tính chi phí dự án xây dựng. Ngoài ra, tất cả các người tham gia được chọn đều đáp ứng được các tiêu chí đã được liệt kê, như được trình bày trong Bảng 1 dưới đây. Phương pháp lấy mẫu [71] đã được áp dụng trong đó các người tham gia tiềm năng được liệt kê từ Hội Kỹ sư Đo bóc khối lượng Malaysia (BQSM) nằm xung quanh Kuala Lumpur & Shah Alam được liên hệ. Tuy nhiên, do phản hồi kém từ các người tham gia được liên hệ, kỹ thuật lấy mẫu bằng cách giới thiệu đã được thực hiện trong đó các người tham gia bổ sung được giới thiệu với sự hỗ trợ từ những người tham gia trước đó [71].
3.2. Cách thức khảo sát
    Các cuộc khảo sát chủ yếu được thông qua ghi âm audio; tuy nhiên, cũng sử dụng việc ghi chú như một phương án thay thế trong trường hợp máy ghi âm gặp sự cố trong quá trình thu thập thông tin từ cuộc thảo luận. Trước khi bắt đầu cuộc thảo luận dự kiến, mỗi nhóm được cung cấp một bộ tài liệu bao gồm một biểu mẫu đồng ý, một tờ ghi danh, một biểu mẫu đánh giá và giấy A4. Một hướng dẫn phỏng vấn đã được sử dụng để dẫn dắt mỗi phiên, bao gồm một loạt các câu hỏi được chỉ định liên quan đến mục đích của nghiên cứu này. Có hai vấn đề chính trong các câu hỏi đã được phát triển: (1) Đến mức độ nào việc trực quan hóa dữ liệu BIM, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và điều phối dữ liệu cải thiện thông tin cho việc phát triển dự toán chi phí; và (2) Đến mức độ nào việc trực quan hóa dữ liệu BIM, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và điều phối dữ liệu cải thiện thông tin dự án,
Bảng 1. Tiêu chí lựa chọn các thành viên nhóm khảo sát
Tiêu chí Lựa ChọnNhóm 1 (Người sử dụng BIM)Nhóm 2 (Người không sử dụng BIM)
Kinh nghiệm làm việc trong ước tính chi phí xây dựngHơn ba năm (có kinh nghiệm với BIM)Hơn mười năm
Học vấn chuyên mônĐo lường lượng, Quản lý dự án, Xây dựng công trình, Kỹ thuật xây dựng, v.v.Đo lường lượng, Quản lý dự án, Xây dựng công trình, Kỹ thuật xây dựng, v.v.
Vai trò hiện tại trong tổ chứcKỹ sư đo lường lượng, Quản lý dự án, Quản lý Xây dựng, Nhà thầu, Kỹ sư Xây dựng, Kiến trúc sư, v.v.Kỹ sư đo lường lượng, Quản lý dự án, Quản lý Xây dựng, Nhà thầu, Kỹ sư Xây dựng, Kiến trúc sư, v.v.
Lĩnh vực của tổ chức hiện tạiCác công ty đo lường lượng, Các công ty Nhà thầu, Các cơ quan Chính phủ, v.v.Các công ty đo lường lượng, Các công ty Nhà thầu, Các cơ quan Chính phủ, v.v.
3.3 Quy trình khảo sát và phân tích kết quả
    Nghiên cứu này đã áp dụng các bước theo Stewart và đồng nghiệp (2007) trong việc tiến hành các quy trình nhóm khảo sát [72]. Đầu tiên, xác định mục đích tiến hành khảo sát nhằm xây dựng phiếu khảo sát [72]. Những người được khảo sát sẽ được thông báo qua email và điện thoại về sự đồng ý tham gia khảo sát vào ngày, giờ và địa điểm cụ thể, cũng như các yêu cầu cụ thể cần được thực hiện bởi họ. Việc tạo ra và thử nghiệm trước bảng câu hỏi phỏng vấn sau đó được tiến hành thảo luận trong các buổi khảo sát. Sẽ có một người dẫn chương trình trong suốt quá trình phỏng vấn [72], tuy nhiên nghiên cứu này không áp dụng người dẫn chương trình do hạn chế về thời gian và chi phí [73]. Sau đó, những người được khảo sát sẽ được sắp xếp trước vị trí, các cuộc thảo luận được tổ chức trong một môi trường thuận lợi để cho tất cả các thành viên tương tác với nhau một cách hiệu quả. Mỗi phiên bắt đầu với một giải thích rõ ràng về mục đích của nghiên cứu trong bài phát biểu khai mạc, tiếp theo là cuộc trao đổi thực tế giữa các thành viên, và kết thúc với một phiên tổng kết cho toàn bộ cuộc thảo luận. Mỗi cuộc thảo luận dự kiến kéo dài từ một đến hai giờ. Nó được tổ chức một cách sao cho mỗi người tham gia đều có thể tự do phản ứng với các câu trả lời của nhau mà không có bất kỳ thứ tự cụ thể nào và đồng ý với quan điểm của người khác. Dữ liệu gốc thu được từ cuộc thảo luận nhóm tập trung cuối cùng được xử lý và giải thích bằng phương pháp phân tích nội dung [74]. Kết quả và nhận định cuối cùng được xác định dẫn đến việc đưa ra kết luận cuối cùng cho nghiên cứu này.
4. Kết quả và thảo luận
Các kết quả và thảo luận sau đây được rút ra từ các nhóm khảo sát dưới các câu hỏi "Việc trực quan hóa dữ liệu BIM, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và phối hợp dữ liệu cải thiện thông tin giúp cho việc phát triển dự toán chi phí ở mức độ nào?" và "Việc trực quan hóa dữ liệu BIM, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và phối hợp dữ liệu ở mức độ nào sẽ giúp cải thiện của thông tin, nâng cao hiểu biết và kiến thức của người ước lượng chi phí để có thể dự toán chi phí chính xác và tin cậy hơn?"
4.1. Việc trực quan hóa dữ liệu BIM, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và phối hợp dữ liệu cải thiện thông tin giúp cho việc phát triển dự toán chi phí ở mức độ nào?
    Dù là người sử dụng BIM hay không, các thành viên trong cả hai nhóm khảo sát đã đồng ý về khả năng của BIM thông qua việc trực quan hóa dữ liệu, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và dữ liệu được phối hợp có thể nâng cấp thông tin dự án để hình thành dự toán chi phí. Việc trực quan hóa dữ liệu dự án thông qua các mô hình 3D có thể minh họa thiết kế và xây dựng thực tế. Do đó, cung cấp cho người dùng dữ liệu chính xác hơn, hiểu biết và giải thích tốt hơn về dự án. Như được mô tả bởi nhóm người không sử dụng BIM, việc hình dung một dự án xây dựng thông qua mô hình 3D là một phương pháp tinh vi thay thế cho các bản vẽ truyền thống. Những khó khăn trong các cấu trúc xây dựng đặc biệt là sự sắp xếp phức tạp của hệ thống điện, cơ khí và ống nước có thể được trình bày tốt hơn thông qua mô hình số hóa thay vì thực hiện qua các bản vẽ 2D thủ công. Do đó, các bản vẽ ảo nên cung cấp thông tin chi tiết hơn để làm rõ hơn về kết quả chi phí của dự án mong muốn.
    "Dữ liệu số, ngoài dữ liệu chi phí, BIM cũng cung cấp thông tin hình ảnh, dưới các dạng vẽ. Trước đây, thông tin được dựa trên bản cứng, bây giờ thông tin được dựa trên bản mềm. Bạn có thể thực sự đi qua tòa nhà, bạn có thể ghé thăm, v.v., kỹ thuật số. Vì vậy, nó nên cung cấp sự hiểu biết tốt hơn đối với trực quan… với trực quan hóa 3D, nó giúp rất nhiều cho MEP với kiến trúc và kết cấu, để cho phép kết nối cho các đường ống… Chúng ta có thể nhìn thấy phần cắt ngang từ trực quan hóa mô hình… với sự hiểu biết về khó khăn/hình dạng của tòa nhà chính nó, ảnh hưởng đến chi phí xây dựng của tòa nhà…" - người không sử dụng BIM
    Tương tự, người sử dụng BIM cho biết rằng các mô hình BIM cung cấp nhiều chi tiết hơn so với các bản vẽ 2D. Mặc dù các bản vẽ truyền thống cũng có thể cho phép trực quan hóa cho việc xây dựng tòa nhà, nhưng chúng không rộng lớn như các mô hình số hóa mà minh họa các cái nhìn thực tế của dự án. Thông tin cung cấp bởi các mô hình trở nên chính xác hơn khi dữ liệu được cập nhật theo thời gian và tất cả các lỗi và thay đổi được phát hiện sớm hơn. Các mô hình BIM giống như các tòa nhà thực tế thể hiện các cái nhìn trực tiếp, giúp người thực hiện phương pháp đo lường khối lượng xây dựng và chi phí của nó tự tin hơn, đặc biệt là đối với cấu hình phức tạp.
    "Khi chúng ta có BIM, chúng ta thấy nhiều chi tiết hơn thông qua các mô hình 3D, so với việc sử dụng các bản vẽ 2D. Vì vậy khi, chúng ta thực hiện bóc tách, ước lượng, BQ, chúng ta hầu hết không bỏ qua thông tin. Do đó, về mặt chính xác, nó sẽ được tăng lên. Sự chính xác của dữ liệu mà chúng ta nhận được… Với BIM, chúng ta có thể điều chỉnh mô hình và xem ở nhiều góc nhìn của thiết kế và xây dựng. Chúng ta không cần phải dựa vào kiến trúc sư để gửi bản vẽ chia ngang… Khi bạn có 2D, bạn có thể hình dung nhưng chúng không được tích hợp, so với mô hình… chúng ta có thể kiểm tra lại dựa trên công nghệ xây dựng. Dù có một số cột, dầm không bình thường nào đó, v.v. vì vậy, nó sẽ giúp chúng ta thẳng tiến từ bề mặt của mô hình, để thấy rằng đây là cách mà tòa nhà trông như thế nào. Do đó, mức độ tự tin của người thực hiện phương pháp đo lường sẽ có được…" – người sử dụng BIM
    Ngoài ra, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy của BIM có thể đóng góp đủ thông tin mà giảm bớt các giả định được thực hiện trong quá trình bóc tách khối lượng, từ đó cải thiện hiệu suất công việc của người dùng. Đối với người không sử dụng BIM, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy có nghĩa là dữ liệu chính xác đã được cập nhật liên tục. Đối với họ, thông tin hoàn chỉnh hơn họ nhận được, thì ước lượng sẽ càng chính xác, vì họ không cần phải giả định nhiều về các con số để xây dựng chi phí cho dự án. Do đó, quá trình này đơn giản hóa công việc của họ bằng cách giảm thiểu các sai sót, tiếp tục khuyến khích việc tư vấn chi phí tốt hơn.
    "Một điều về dữ liệu là nó sẽ đáng tin cậy nếu nó được cập nhật liên tục… Tôi nghĩ nếu nó không có đủ thông tin, thì đó không phải là BIM. Hệ thống nói về kích thước, quy trình và bảo dưỡng trong 3D là tự động và minh bạch… Bởi vì bạn có dữ liệu, sau đó bạn có thể làm việc tốt hơn. Sau đó, dễ hiểu… Nếu bạn có một cơ sở dữ liệu tốt, có nghĩa là nó làm cho công việc của bạn dễ dàng hơn. Và tất nhiên, cơ hội để mắc lỗi ít hơn… Nếu chúng ta nói về cơ sở dữ liệu đáng tin cậy, thì thông tin càng nhiều chúng ta nhận được, thì ước lượng của chúng ta càng chính xác. Giảm điều kiện giả định…" – người không sử dụng BIM
    Tương tự, bằng cách sử dụng BIM, người dùng công nhận rằng cơ sở dữ liệu đáng tin cậy của BIM có thể phát triển thông tin từ đầu dự án cho đến giai đoạn quản lý tài sản, trong hậu quả, nâng cao hiệu suất dự án. Với những người ước lượng chi phí, phần quan trọng nhất là liệu cơ sở dữ liệu có thể trang bị họ đủ thông tin cho mục đích bóc tách khối lượng hay không. Các phân loại về các cấp độ chi tiết (LOD) trong việc xác định việc phát triển thông tin trong quy trình BIM thực sự giúp các nhà thiết kế thực hiện đúng theo từng bước để phù hợp với dự án với thông tin cần thiết của nó.
    "Có một số cấp độ chi tiết, mà chúng ta cần phải chia nhỏ và mà chúng ta cần phải xác định mô hình, LOD100, LOD200, LOD300, v.v. Vì vậy, với các ước lượng chi phí mà chúng ta đang nói đến, LOD200 là đủ tốt, để trích xuất thông tin, không hoàn chỉnh nhưng ít nhất bạn có thể trích xuất thông tin… Hiệu suất công việc tốt hơn nếu bạn có thể sử dụng BIM liên tục đến cuối tài khoản cuối cùng. Một mô hình BIM có thể được điều chỉnh cho đến cuối hợp đồng. Trong các giai đoạn khác của dự án xây dựng…" - người sử dụng BIM
    Ngoài ra, việc phối hợp dữ liệu từ các mô hình BIM có thể cho phép chia sẻ và tích hợp thông tin giữa các chuyên ngành trong nhóm dự án, dẫn đến việc đạt được một mục tiêu hợp tác giữa các bên liên quan để xác định chi phí dự án chính xác hơn. Trong việc xác định tích hợp thông tin dự án, những người không sử dụng BIM nhấn mạnh rằng nhóm dự án không nên làm việc một cách độc lập, mà thay vào đó phải liên lạc với nhau suốt quá trình tiến triển dự án. Phối hợp yêu cầu tất cả các chuyên ngành hoạt động hiệu quả và nhận biết trách nhiệm của họ tại mỗi giai đoạn ban đầu của thiết kế dự án. Điều này sẽ tạo ra một môi trường hợp tác trong nhóm, có thể làm giảm hiểu lầm, từ đó tăng cường độ chính xác trong thực hành của họ. Hiệu ứng silo trong hoạt động dự án chỉ khuyến khích mỗi cá nhân trở nên quá bảo vệ dữ liệu của riêng mình, không chịu chia sẻ với người khác.
    "Sự tích hợp. Người tư vấn phải có năng lực để thiết kế từ giai đoạn sớm… Để kế hoạch có thể giúp giảm thiểu sự không phù hợp trong giai đoạn xây dựng… Mục tiêu chính là giảm thiểu lỗi… Mục tiêu chính tất nhiên là chúng ta có thể đưa ra ước lượng chính xác… ít lỗi tăng độ chính xác mặc dù không phải 100%. Chúng ta là những chuyên gia, chúng ta cần phải đảm bảo độ chính xác, nếu không, chúng ta phải chịu lỗi… Nếu chúng ta làm việc một cách cô lập, mỗi người rất bảo vệ dữ liệu của mình. Vì vậy, cuối cùng, đó là sự tự hài lòng, nhưng không phải của người khác…" - người không sử dụng BIM
    Theo ý kiến của người dùng, công nghệ BIM không thể phủ nhận đã ủng hộ một môi trường hiệu quả về phối hợp và tích hợp dữ liệu giữa các thành viên trong nhóm. Sau đó, thông tin có thể được chia sẻ và truyền đạt một cách đầy đủ để sử dụng cho các mục đích khác nhau, chẳng hạn như ước lượng chi phí. Xem xét đồng thời dữ liệu thu thập từ tất cả các chuyên ngành liên quan thông qua nền tảng BIM phát hiện sự không tương thích giữa các yếu tố xây dựng của kiến trúc, kết cấu và cơ điện (M&E). Những sai khác dữ liệu này nên được chỉnh sửa sớm hơn, tạo ra thông tin không xung đột cho dự án, mà người dùng có thể dựa vào cho các nhiệm vụ ước lượng chi phí của mình.
    "Trong quá trình hợp tác trước khi dự án bắt đầu, nhà thiết kế, đặc biệt là các kiến trúc sư, nên thực sự nói với họ về BIM và yêu cầu họ có được một số thông tin về phần mềm họ sẽ sử dụng. Liệu họ có thể chia sẻ thông tin thông qua phần mềm họ đang sử dụng hay không. Ví dụ, kiến trúc sư, kết cấu sử dụng Revit. Còn với M&E thì sao? Họ phải được phối hợp. Bởi vì đó là mục đích của BIM, để hợp tác với nhau. Nếu họ không sử dụng cùng một nền tảng, họ không thể nói chuyện với nhau… Vì vậy, kết cấu, M&E và kiến trúc thực sự là những người phối hợp với nhau. Để thực hiện quá trình phát hiện xung đột, kiểm tra lại… Chúng ta thực sự tốn thời gian để phát triển mô hình, nhưng cuối cùng, không có xung đột…" – người dùng BIM
    Một mức độ nhất định, việc trực quan hóa dữ liệu, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và phối hợp dữ liệu thông qua cơ chế BIM không thể phủ nhận đã cải thiện thông tin để được điều chỉnh trong bất kỳ dự án xây dựng nào, bao gồm cả giai đoạn ước lượng chi phí. Hơn nữa, để phát triển ước lượng chi phí dự án, việc thực hiện quy trình BIM làm tăng tốc quy trình ước lượng bằng cách giảm thiểu lỗi và thay đổi, do đó tiết kiệm thời gian và chi phí ở một số giai đoạn. Các phần tiếp theo sẽ thảo luận về cách các khả năng BIM của việc trực quan hóa dữ liệu, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và phối hợp dữ liệu cải thiện thông tin dự án, từ đó tăng cường sự hiểu biết và kiến thức của người ước lượng chi phí để xây dựng ước lượng chi phí đáng tin cậy hơn.
4.2. Việc trực quan hóa dữ liệu BIM, cơ sở dữ liệu đáng tin cậy và phối hợp dữ liệu ở mức độ nào sẽ giúp cải thiện của thông tin, nâng cao hiểu biết và kiến thức của người ước lượng chi phí để có thể dự toán chi phí chính xác và tin cậy hơn?
    Khả năng của BIM trong việc trực quan hóa dữ liệu một cách hiệu quả, cung cấp nền tảng cơ sở dữ liệu đáng tin cậy hơn, và tích hợp dữ liệu được phối hợp này giữa các bộ môn trong dự án, thực sự hỗ trợ người dự toán chi phí trong một số mức độ. Ví dụ, cả hai nhóm đều đồng ý rằng việc xem 3D thông qua các mô hình BIM chắc chắn mang lại lợi ích đặc biệt cho người bóc tách không có kinh nghiệm, giúp họ hiểu thiết kế và xây dựng công trình một cách dễ dàng hơn.
    "Tài liệu số có thể giúp những người mới trong việc dự toán chi phí hiểu rõ hơn so với những người có kinh nghiệm... Dù họ thiếu kinh nghiệm, họ vẫn có thể diễn giải dữ liệu, nhưng cần nỗ lực bổ sung để hiểu thiết kế, v.v. như khi họ nhìn vào bản vẽ, kế hoạch, và bản vẽ mặt cắt hoặc từ những bản vẽ phác thảo, có thể họ không hiểu. Nhưng nếu nói, bất cứ khi nào bạn có thông tin 3D, không nên có vấn đề nào liên quan đến việc hiểu về độ khó hoặc hình dạng của tòa nhà, ảnh hưởng đến chi phí của tòa nhà..." - người không sử dụng BIM
    "Giả sử với nhân viên mới. Đối với họ, có lẽ họ vẫn còn mới. Vì vậy, kinh nghiệm của họ trong xây dựng không cao. Vì vậy, khi họ nhìn thấy mô hình 3D, họ có thể hiểu ngay. Đôi khi họ hiểu cách đọc bản vẽ. Nhưng đối với họ, việc diễn giải ban đầu là khá chậm chạp. Họ biết cách đo lường nhưng họ không biết cách diễn giải. Một khi diễn giải là sai, tỷ lệ họ có sai số đo lường cũng rất cao. Vì vậy, khi họ nhìn thấy một mô hình 3D, họ có thể hiểu thông tin trong tòa nhà một cách tốt hơn..." - người sử dụng BIM
    Tuy nhiên, cũng có một số thách thức được đề cập bởi các thành viên của nhóm khảo sát liên quan đến việc áp dụng các mô hình BIM. Đặc biệt là khả năng của công nghệ BIM trong việc cải thiện hiểu biết của họ và kiến thúc để tăng độ tin cậy của dự toán chi phí. Trong việc khuyến khích hiểu biết về thông tin dự án thông qua ứng dụng BIM, điều này tuyệt đối phụ thuộc vào các chi tiết được thiết kế cung cấp cho các mô hình BIM. Những người không sử dụng BIM nhấn mạnh rằng việc có thông tin chi tiết và nguồn thông tin đáng tin cậy trước khi thực hiện bất kỳ ước tính chi phí nào là rất quan trọng để xác nhận tính chính xác và đáng tin cậy của chúng. Các mô hình BIM có thể vượt qua hạn chế của việc sử dụng dữ liệu có sẵn từ các dự án trước để tạo ra giả định về chi phí; miễn là các nhà thiết kế khai báo đủ thông tin cho các mô hình được chỉ định cho mục đích tương ứng.
    "Cuối cùng, tất cả phụ thuộc vào cách mà các nhà thiết kế cung cấp các chi tiết, vì các chi tiết rất quan trọng. Nếu thiếu chi tiết, bạn sẽ phải đưa ra nhiều giả định. Đôi khi, người ước lượng được giao từ giai đoạn đầu của một dự án; bạn phải cân nhắc rằng kết quả của ước tính đầu tiên sẽ ảnh hưởng đến chi phí cuối cùng của dự án. Chúng ta phải cam kết về những vấn đề tài chính sẽ như thế nào. Nó giúp việc trực quan hóa dữ liệu..." - người không sử dụng BIM
    Sự quan trọng của việc các nhà thiết kế cung cấp đủ chi tiết trong các mô hình BIM được giải thích thêm bởi người sử dụng BIM. Vì đầu vào được nhúng trong mô hình xác định thông tin nhận được cho mục đích sử dụng của người ước lượng chi phí, việc này trở thành nỗ lực của các nhà thiết kế để chỉ định thông tin mong muốn để bao gồm trong các mô hình của họ. Tuy nhiên, đôi khi, người dùng chỉ nhận được quá nhiều chi tiết đòi hỏi việc chọn lọc dữ liệu tốn thời gian, hoặc thông tin không đầy đủ đòi hỏi các giả định liên quan để ước tính chi phí.
    "Đầu vào được cung cấp cho mô hình xác định thông tin mà chúng tôi cung cấp. Dù chúng ta có tiêu chuẩn, chúng ta vẫn cần phải điền thông tin cần thiết để có được thông tin. Cuối cùng, đó sẽ là bất kỳ nỗ lực nào của các kỹ sư để đóng góp vào việc phát triển thông tin. Rất khó để phụ thuộc vào dữ liệu từ các nhà thiết kế. Không có đủ thông tin... Đôi khi bạn thực sự không thể xác định cho đến khi việc xây dựng tòa nhà hoàn thành. Thiết kế cần phải hoàn chỉnh. Vấn đề của chúng tôi bây giờ là chúng tôi không thể phụ thuộc vào các kỹ sư, v.v. Bạn cần phải diễn giải, tạo ra giả định của riêng bạn. Điều này không linh hoạt. Mọi người sẽ dễ dàng chấp nhận với điều này, nhưng chúng tôi làm việc như một QS cảm thấy hơi bức xúc với tình hình này... Khi họ cung cấp cho chúng tôi dữ liệu; nó quá nhiều. Chúng tôi cần phải chọn lựa chỗ nào phù hợp. Đôi khi nếu bản vẽ không khớp giữa kiến trúc và kết cấu, nó sẽ rất nhiễu loạn. Làm cho thiết kế của bạn vào lỗi..." - người sử dụng BIM
    Ngoài ra, các người sử dụng BIM cho rằng việc trực quan hóa thiết kế và xây dựng của một dự án thông qua các mô hình BIM chỉ giúp tạo ra khối lượng xây dựng tự động để đo lường. Các tỷ lệ xây dựng liên quan đến các yếu tố giá cả bên ngoài khác để hoàn thành ước tính chi phí dự án không được tích hợp vào quá trình. Các mô hình BIM chỉ tự động hóa khối lượng cho các thành phần của tòa nhà mà không phải là các hoạt động tạo nên các thành phần đó.
    "Chúng ta không thể tự động lấy tất cả. Nếu chúng ta có được điều này, chúng ta vẫn cần phải xây dựng các đơn giá. Điều đó có nghĩa là, nó giúp chúng ta trong việc phát triển ước tính, để có được khối lượng, không phải trực tiếp có được chi phí. Có rất nhiều yếu tố đóng góp vào chi phí. Trong mô hình, chúng ta đang tham khảo các thành phần, không phải là các công việc để tạo ra thành phần đó. Chi phí không phải là điều dễ dàng để thực hiện..." - Người dùng BIM"
    Điều này song song với ý kiến của những người không sử dụng BIM khi áp dụng công nghệ BIM để xây dựng các chi phí dự án. Cuối cùng, cơ chế BIM có thể được thực hiện để cung cấp các khối lượng xây dựng chính xác hơn vì nó một phần làm phong phú thêm thông tin cần thiết trong việc xây dựng ước tính chi phí đáng tin cậy hơn.
    "Đối với dự toán, tôi nghĩ rằng có rất nhiều yếu tố được giao ngoài so với việc chỉ nhìn vào 3D hoặc 2D, 5D và cứ thế. Nó nhiều hơn thế. Nhưng nếu chỉ cần bóc tách khối lượng thì BIM có thể làm được. Nó được bao gồm trong hệ thống. Bạn có thể xem tất cả mọi thứ. Từ đó, bạn có thể bóc tách nó dễ dàng hơn nhiều. Mọi thứ dường như nhanh hơn. Vì vậy việc nhanh hơn chỉ áp dụng cho việc bóc tách, không áp dụng cho việc dự toán chi phí...Vấn đề là khi bạn nói, BIM giúp làm các dự toán, đúng. Về việc trích xuất các khối lượng, đó là đúng. Nó rất tốt. Nhưng có những yếu tố mà bạn cần phải bổ sung, dựa trên kinh nghiệm. Trích xuất các khối lượng, đúng, nhưng không phải là các yếu tố giá..." - người không sử dụng BIM
    Liên quan đến kiến thức, môi trường BIM trong việc bóc tách khối lượng sẽ tích cực thúc đẩy sự cải thiện hiểu biết trong quá trình ước tính giữa các kỹ sư QS. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi sự cố gắng để cân bằng cả kiến thức về phương pháp đo lường công trình cơ bản và kỹ năng sử dụng công nghệ số mới như BIM. Theo những người không sử dụng BIM, công nghệ BIM chỉ có giá trị trong thực hành của họ nếu họ có thể trang bị cho bản thân họ những khả năng sử dụng phần mềm số, và đồng thời hiểu biết về bản vẽ xây dựng một cách cơ bản cho mục đích đo lường.
    "Vì vậy, có lẽ với BIM, việc đo lường được đơn giản hóa thông qua việc tự động hóa, không cần phải sử dụng phương pháp truyền thống của tay cầm. Nhưng người ước lượng cần hiểu phương pháp đo lường. Vì vậy, tính đáng tin cậy của ước lượng sẽ phụ thuộc vào kiến thức của người sử dụng...Bạn có thể đo lường, và đồng thời bạn có thể trực quan hóa từ các bản vẽ kỹ thuật số. Và cuối cùng, chúng tôi hiểu... Kiến thức nên được tích hợp (có thể thực hiện ước tính, thành thạo trong việc số hóa, vận hành bản vẽ để đo lường), và sau đó chỉ khi đó công nghệ này mới có ích. Nếu không, việc sử dụng nó bị hạn chế..." - người không sử dụng BIM
    Tương tự, những người sử dụng BIM khẳng định rằng trước khi sử dụng mô hình BIM để đo lường xây dựng, họ cần phải biết về phương pháp cơ bản sử dụng các bản vẽ truyền thống. Mặc dù có khả năng có mô hình BIM nơi thông tin yêu cầu không thể được truy xuất, ít nhất người dùng có thể sử dụng kiến thức và kinh nghiệm về đo lường truyền thống để tạo ra thông tin họ cần thông qua nền tảng số hóa. Nói cách khác, để nâng cấp chuyên môn về chi phí họ cần có sự cân bằng giữa kiến thức và công nghệ để trở thành người dẫn đầu về dự toán trong việc đưa ra các dự toán chi phí chính xác và tin cậy hơn.
    "...làm thế nào để đọc mô hình 3D...làm thế nào để đọc bản vẽ 2D... làm thế nào để lấy những thông tin cho điều này...Bởi vì không phải tất cả thông đều có trong mô hình 3D. Nhưng nếu không có nó, bạn không thể lấy được bất kỳ thông tin nào. Chi tiết, không phải tất cả đều được cung cấp trong các thuộc tính của mô hình 3D. Vì vậy, việc đào tạo về cách đọc điều này, cách sử dụng nền tảng sử dụng công nghệ. Để lấy những thông tin này, tất cả từ 3D và 2D, đều rất quan trọng…Kinh nghiệm trong việc ước lượng không chiếm hết 100% những gì bạn cần phải thực hiện. Đó là một phần cân đối giữa kiến thức và công nghệ. Bạn có kiến thức này, bạn cần phải sử dụng công nghệ này, và bạn kết hợp chúng lại với nhau. Một khi bạn kết hợp chúng lại với nhau, bạn sẽ trở thành một QS mạnh mẽ. Bạn biết cách ước lượng, bạn biết cách đo lường 2D và bạn cũng biết cách đọc mô hình 3D…” – Người dùng BIM
    Tóm lại, thông tin kỹ thuật số thuận tiện mà có thể được lấy từ các mô hình BIM, ở một số điểm, có thể giúp cho các nhà dự toán chi phí cải thiện sự hiểu biết và kiến thức của họ trong việc xác định tính đáng tin cậy của dự toán chi phí. Tuy nhiên, một số vấn đề cần phải được sửa chữa trước để tránh sự thất bại trong việc sử dụng công nghệ một cách hiệu quả. Mặc dù các mô hình được cung cấp với thông tin phù hợp; không chỉ người sử dụng mà còn cần phải có khả năng sử dụng phần mềm kỹ thuật số liên quan, nhưng họ cũng cần phải có kiến thức về việc hiểu biết về bản chất của các bản vẽ xây dựng.
5. Giải pháp
    Nghiên cứu này khám phá tiềm năng của công nghệ BIM trong việc chứng minh tính đáng tin cậy của dự toán chi phí từ góc nhìn của người khảo sát Malaysia. Thông qua cuộc thảo luận nhóm tập trung, dù là người dùng BIM hay không, các người khảo sát đã công nhận những lợi ích của BIM đối với việc cải thiện vai trò của họ như làm dự toán chi phí. Việc hình dung thông tin dự án thông qua mô hình BIM có thể tạo ra sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa các người khảo sát trong việc phát triển các dự toán chi phí chính xác và đáng tin cậy hơn. Quá trình này được tăng cường thêm bởi sự hỗ trợ của cơ sở dữ liệu đáng tin cậy của BIM và dữ liệu được phối hợp để làm cho quá trình hiệu quả hơn. Với mô hình BIM mô phỏng các quan điểm thiết kế và xây dựng thực tế, nó có thể tạo ra đủ thông tin cần thiết cho các người dùng. Ngoài ra, dữ liệu được phối hợp từ cơ chế BIM có thể tạo ra một nền tảng tốt hơn cho tất cả các lĩnh vực trong nhóm dự án để chia sẻ và tích hợp thông tin trong suốt chu kỳ dự án. Do đó, nó tạo ra một môi trường tương tác hơn để đạt được mục tiêu của việc khai mạc thông tin đáng tin cậy hơn trong số các bên liên quan.
    Tuy nhiên, các người khảo sát cũng cảnh báo về một số hạn chế của công nghệ có thể ảnh hưởng đến hiệu suất thực hành dự toán chi phí của họ, đặc biệt trong việc cải thiện hiểu biết của họ. Công nghệ trở nên không hiệu quả khi cung cấp quá nhiều dữ liệu đòi hỏi người dùng phải có thể trích xuất những dữ liệu mà họ cần một cách đáng tin cậy. Ngược lại, khả năng cung cấp dữ liệu không đủ của các mô hình BIM dẫn đến việc phải đưa ra nhiều giả định trước khi thiết lập các dự toán chi phí dự án. Do đó, có một số yêu cầu mô hình BIM mà người dùng cần xem xét một cách cẩn thận trước khi triển khai mô hình để tận dụng đầy đủ cho việc trích xuất thông tin. Đó là trách nhiệm của các nhà thiết kế để đóng góp đủ dữ liệu vào mô hình BIM để nó có thể được sử dụng đầy đủ bởi người dùng cho các ứng dụng quan trọng khác như dự toán chi phí dự án.
    Cũng được chỉ ra rằng công nghệ một mình là không đủ để đạt được các chi phí chính xác. Mặc dù sáng kiến BIM có thể tiềm ẩn khả năng tạo ra các lượng chất lượng đầu ra đáng tin cậy, nhưng việc định giá bất kỳ dự án xây dựng nào đều đòi hỏi một số yếu tố giá cả bên ngoài khác đòi hỏi sự đánh giá của người khảo sát. Tuy nhiên, việc áp dụng BIM vào các thủ tục dự toán chi phí vẫn có thể một phần giúp ích cho các người khảo sát trong việc thu thập số liệu lượng xây dựng chính xác và đáng tin cậy hơn cho các dự toán chi phí sau này. Bằng mọi cách, việc sử dụng hiệu quả của BIM phụ thuộc vào người dùng để phù hợp công nghệ này với kiến thức hiện có của họ về các phương pháp đo lường cơ bản trong xây dựng. Điều mới mẻ của nghiên cứu này nằm ở việc đóng góp vào việc thiết lập các chiến lược tích hợp công nghệ BIM trong việc cải thiện thực hành dự toán chi phí bởi các người khảo sát. Nó cụ thể tập trung vào khả năng của các nhà khảo sát không chỉ để củng cố kỹ năng đo lường xây dựng truyền thống, mà còn để làm chủ kiến thức về phần mềm kỹ thuật số trong công nghệ mới của BIM.
Trích dẫn: 
[1] Gee, C. (2010). "The influence of Building Information Modelling on the quantity surveying profession." Faculty of Engineering, Built Environment and Information Technology.
[2] Ahuja, H., & Campbell, W. (1988). "Estimating." 1st ed. Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall.
[3] Schuette, S., & Liska, R. (1994). "Building Construction Estimating." 1st ed. New York: McGraw-Hill.
[4] Ashworth, A., & Skitmore, M. (1999). "Accuracy in estimating." In Cost Modelling, 1st ed., M. Skitmore and V. Marston, Eds. London: E & FN Spon.
[5] Peurifoy, R., & Oberlender, G. (2002). "Estimating Construction Costs." 5th ed. New York: McGraw-Hill.
[6] Brook, M. (2008). "Estimating and Tendering for Construction Work." 4th ed. Amsterdam: Elsevier Butterworth-Heinemann.
[7] Greenhalgh, B. (2013). "Introduction to Estimating for Construction." 1st ed. Abingdon, Oxon: Routledge.
[8] Samphaongoen, P. (2010). "A visual approach to construction cost estimating." Marquette University.
[9] Azman, M. A., Abdul-Samad, Z., & Ismail, S. (2021). "The accuracy of preliminary cost estimates in Public Works Department (PWD) of Peninsular Malaysia." Int. J. Proj. Manag., 31(7), 994–1005.
[10] Akintoye, A. (2000). "Analysis of factors influencing project cost estimating practice." Constr. Manag. Econ., 18(1), 77–89.
[11] Aibinu, A. A., & Pasco, T. (2008). "The accuracy of pretender building cost estimates in Australia." Constr. Manag. Econ., 26(12), 1257–1269.
[12] Koleola, T., & Henry, N. (2008). "Factors affecting the accuracy of a pre-tender cost estimate in Nigeria." Cost Eng.
[13] Olatunji, O. A., & Sher, W. D. (2010). "A comparative analysis of 2D computer-aided Estimating (CAE) and BIM estimating procedures." In Handbook of Research on Building Information Modeling and Construction Informatics: Concepts and Technologies. IGI Global, pp. 170–189.
[14] Cheng, Y.-M. (2014). "An exploration into cost-influencing factors on construction projects." Int. J. Proj. Manag., 32, 850–860.
[15] Trost, S. M., & Oberlender, G. D. (2003). "Predicting accuracy of early cost estimates using factor analysis and multivariate regression." J. Constr. Eng. Manag., 129(2), 198–204.
[16] Serpell, A. F. (2004). "Towards a knowledge-based assessment of conceptual cost estimates." Build. Res. Inf., 32(2), 157–164.
[17] Tas, E., & Yaman, H. (2005). "A building cost estimation model based on cost significant work packages." Eng. Constr. Archit. Manag., 12(3), 251–263.
[18] Elhag, T. M. S., Boussabaine, A. H., & Ballal, T. M. A. (2005). "Critical determinants of construction tendering costs: Quantity surveyors’ standpoint." Int. J. Proj. Manag., 23(7), 538–545.
[19] Enshassi, A., Mohamed, S., & Madi, I. (2005). "Factors affecting accuracy of cost estimation of building contracts in the Gaza Strip." J. Financ. Manag. Prop. Constr., 10(2), 115–125.
[20] Chan, S. L., & Park, M. (2005). "Project cost estimation using principal component regression." Constr. Manag. Econ., 23(3), 295–304.
[21] Liu, L., & Zhu, K. (2007). "Improving cost estimates of construction projects using phased cost factors." J. Constr. Eng. Manag., 133(1), 91–95.
[22] Stoy, C., Pollalis, S., & Schalcher, H. (2008). "Drivers for cost estimating in early design: Case study of residential construction." J. Constr. Eng. Manag., 134(1), 32–39.
[23] CRC Construction Innovation. (2007). "Adopting BIM for facilities management: Solutions for managing the Sydney Opera House." Cooperative Research Center for Construction Innovation, Brisbane, Australia.
[24] Furneaux, C., & Kivvits, R. (2008). "BIM – Implications for Government." CRC for Construction Innovation, Brisbane.
[25] Bryde, D., Broquetas, M., & Volm, J. M. (2013). "The project benefits of Building Information Modelling (BIM)." Int. J. Proj. Manag., 31, 971–980.
[26] Kalinichuk, S., & Tomek, A. (2013). "Construction industry products diversification by implementation of BIM." Int. J. Eng. Technol. Innov., 3(4), 251–258.
[27] Abbasnejad, B., & Moud, H. I. (2013). "BIM and basic challenges associated with its definitions, interpretations and expectations." Int. J. Eng. Res. Appl., 3(2), 287–294.
[28] Nagalingam, G., Jayasena, H. S., & Ranadewa, K. A. T. O. (2013). "Building Information Modelling and future Quantity Surveyor’s practice in Sri Lankan construction industry." In The Second World Construction Symposium 2013: Socio-Economic Sustainability in Construction, pp. 81–92.
[29] Kang, J., Ryoo, B., & Faghihi, V. (2012). "Five challenges you need to know for successful BIM application in developing countries." In Third International Conference on Construction in Developing Countries (ICCIDC–III).
[30] Monteiro, A., & Martins, J. P. (2013). "A survey on modeling guidelines for quantity takeoff-oriented BIM-based design." Autom. Constr., 35, 238–253.
[31] Kim, G., Park, H., & Shin, J. (2013). "An assessment of the accuracy of cost estimation using Building Information Modeling in design process." Appl. Mech. Mater., 291–294, 2822–2825.
[32] CIDB. (2015). Construction Industry Transformation Programme (CITP) 2016-2020 (No. 1). Kuala Lumpur: Construction Industry Development Board (CIDB) Malaysia.
[33] Zahrizan, Z., Ali, N. M., Haron, A. T., Marshallponting, A., & Abd, Z. (2013). "Exploring the adoption of Building Information Modelling (BIM) in the Malaysian construction industry: A qualitative approach." IJRET Int. J. Res. Eng. Technol., 2(8), 384–395.
[34] Marrero, N. (2007). "Visualization metrics: An overview." Visualization, 1, 1–3.
[35] CRC Construction Innovation. (2009). "National guidelines for digital modelling."
[36] Sheth, A. Z., & Malsane, S. M. (2014). "Building Information Modelling, a tool for green built environment." In All India Seminar on Innovation in Green Building Technology, Green Build 2014.
[37] Eadie, R., Odeyinka, H., Browne, M., Mckeown, C., & Yohanis, M. (2013). "An analysis of the drivers for adopting Building Information Modelling." J. Inf. Technol. Constr., 18, 338–352.
[38] Boon, J. (2009). "Preparing for the BIM revolution." In 13th Pacific Association of Quantity Surveyors Congress (PAQS 2009), pp. 33–40.
[39] Rajendran, P., Seow, T., & Goh, K. (2014). "Building Information Modeling (BIM) in design stage to assist in time, cost and quality in construction innovation." Int. J. Conceptions Manag. Soc. Sci., 2(3), 52–55.
[40] InfoComm International. (2011). "Building Information Modeling (BIM) Guide."
[41] Boshoff, J. (2014). "Building Information Modelling (BIM)." Civil Engineering, March, p. 56.
[42] Kim, J. (2012). "Use of BIM for effective visualization teaching approach in construction education." J. Prof. Issues Eng. Educ. Pract., 138(3), 214–223.
[43] Kumanayake, R. P., & Bandara, R. M. P. S. (2012). "Building Information Modelling (BIM): How it improves building performance." In International Symposium on Ensuring National Security Through Reconciliation & Sustainable Development, pp. 357–365.
[44] Demian, P., & Walters, D. (2013). "The advantages of information management through building information modelling." Constr. Manag. Econ., 32(12), 1153–1165.
[45] Alp, N., & Manning, C. (2014). "Creating a plan for Building Information Modeling." In Proceedings of PICMET ’14: Infrastructure and Service Integration, pp. 2732–2734.
[46] Gerrard, A., Zuo, J., Zillante, G., & Skitmore, M. (2009). "Building Information Modeling in the Australian architecture engineering and construction industry." In Handbook of Research on Building Information Modeling and Construction Informatics, J. Underwood and U. Isikdag (Eds.). IGI Global, pp. 521–544.
[47] Sawhney, A., & Singhal, P. (2013). "Drivers and barriers to the use of Building Information Modelling in India." Int. J. 3-D Inf. Model., 2(3), 46–63.
[48] Aranda-mena, G., et al. (2008). "Business Drivers for Building Information Modelling." Brisbane, Australia.
[49] Popov, V., Juocevicius, V., Migilinskas, D., Ustinovichius, L., & Mikalauskas, S. (2010). "The use of a virtual building design and construction model for developing an effective project concept in 5D environment." Autom. Constr., 19(3), 357–367.
[50] NBS. (2014). "NBS National BIM Report 2014."
[51] McCartney, C. (2010). "Factors effecting the uptake of Building Information Modeling (BIM) in the Auckland Architecture, Engineering, & Construction (AEC) industry." New Zealand.
[52] Campbell, D. A. (2007). "Building Information Modeling: The web 3D application for AEC." In Web3D 2007, pp. 173–177.
[53] Leicht, R. M., & Messner, J. I. (1997). "Comparing traditional schematic design documentation to a schematic building information model." In Proceedings of CIB W78 24th International Conference on Information Technology in Construction, pp. 39–46.
[54] Bazovsky, I. (1961). Reliability Theory and Practice. Englewood Cliffs, N.J.: Prentice-Hall.
[55] Skitmore, R. M. (1988). "Factors affecting estimating accuracy." Cost Eng., 30(12), 12–17.
[56] Flanagan, R., & Norman, G. (1983). "The accuracy and monitoring of Quantity Surveyors’ price forecasting for
[57] Sylvester, K. E., & Dietrich, C. (2010). "Evaluation of Building Information Modeling (BIM) estimating methods in construction education." In 46th ASC Annual International Conference Proceedings Associated Schools of Construction Boston, MA.
[58] Bylund, C., & Magnusson, A. (2011). "Model based cost estimations - An international comparison." Lund University.
[59] Shen, Z., & Issa, R. R. A. (2010). "Quantitative evaluation of the BIM-assisted construction detailed cost estimates." J. Inf. Technol. Constr., 15, 234–257.
[60] Cheung, F. K. T., Rihan, J., Tah, J., Duce, D., & Kurul, E. (2012). "Early stage multi-level cost estimation for schematic BIM models." Autom. Constr., 27, 67–77.
[61] Chen, J. (2013). "Application of BIM on quantity estimate for reinforced concrete." Appl. Mech. Mater., 357–360(2013), 2402–2405.
[62] Lee, S., Kim, K., & Yu, J. (2014). "BIM and ontology-based approach for building cost estimation." Autom. Constr., 41, 96-105.
[63] Ma, Z., Wei, Z., & Zhang, X. (2013). "Semi-automatic and specification-compliant cost estimation for tendering of building projects based on IFC data of design model." Autom. Constr., 30, 126–135.
[64] Tse, K. T., Wong, A. K., & Wong, F. K. (2009). "Building information modelling in material take-off in a Hong Kong project." In Collaborative Construction Information Management, G. Q. Shen, P. Brandon, and A. N. Baldwin (Eds.). New York: Spon Press, pp. 186–197.
[65] BCIS. (2011). "RICS 2011 Building Information Modelling Survey Report." London.
[66] Boon, J., & Prigg, C. (2012). "Evolution of quantity surveying practice in the use of BIM – the New Zealand experience." In Proceedings of the CIB International Conference on Management and Innovation for a Sustainable Built Environment., pp. 84–98.
[67] Stanley, R., & Thurnell, D. (2014). "The benefits of, and barriers to, implementation of 5D BIM for quantity surveying in New Zealand." Aust. J. Constr. Econ. Build., 14(1), 105–117.
[68] Harrison, C., & Thurnell, D. (2015). "BIM implementation in a New Zealand consulting quantity surveying practice." Int. J. Constr. Supply Chain Manag., 5(1), 1–15.
[69] Olatunji, O. A., Sher, W., & Gu, N. (2010). "Building Information Modeling and quantity surveying practice." Emirates J. Eng. Res., 15(1), 67–70.
[70] Babbie, E. R. (2011). Introduction to Social Research, 5th ed. Belmont, Calif: Wadsworth.
[71] Morgan, D. L. (2008). The SAGE Encyclopedia of Qualitative Research Methods. Thousand Oaks, CA: SAGE Publications.
[72] Stewart, D. W., Shamdasani, P. N., & Rook, D. W. (2007). Focus Groups: Theory and Practice, 2nd ed. Thousand Oaks, CA: SAGE Publications.
[73] Fern, E. F. (2001). Advanced Focus Group Research. Thousand Oaks, CA: SAGE Publications.
[74] Tharenou, P., Donohue, R., & Cooper, B. (2007). Management Research Methods. Cambridge, England: Cambridge University Press.
[/tintuc]

Bình luận

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp và câu hỏi của bạn về bài viết này!

KÊNH YOUTUBE CỦA CHÚNG TÔI

Đăng ký học